Đầu xuân năm sau, tức năm Bính Thìn, nhà họ Quách vui vẻ sum vầy trong tòa trang viện mới, cạnh Mã gia trang. Trước đây, cơ ngơi này là của một phú hộ họ Dư, bằng hữu của Quách Thiên Trường. Thấy bạn già không có nhà, Dư Kiệt nhường lại với giá phải chăng. Lão vẫn còn vài căn như thế.
Nhà mua lại bao giờ cũng phải tu sửa cho đúng ý chủ mới. Thế là gã răng hô Tang Đông Dã lại có dịp trổ tài. Lần trước, cũng nhờ đường hầm thông ra sông Thạch Lương của gã mà nhiều người thoát nạn.
Đêm ấy, khi thấy Can nương là Quách phu nhân đã bị bắt và cục diện không thể vãn hồi, Dịch Quan San quyết định đưa những người còn lại đào vong. Gã đích thân cõng Tử Chiêm, cố bảo toàn tông mạch cho họ Quách.
Nhưng Chiêm nhi đã tuột tay và thất lạc lúc trồi khỏi mặt nước. Nó bị cuốn trôi đi rất xa mới lên được cánh rừng ven bờ. Vì ăn nhằm quả độc mà Tử Chiêm hóa khỉ, bị một gã tiều phu bắt được mang ra chợ bán. Đổ Hầu tình cờ gặp và mua lại.
Nhờ những viên “Thiên sơn Tuyết liên tử” tịch thu của Bạch Điến thư sinh mà Chiêm nhi đã trở lại như xưa. Nhưng tai nạn kia đã khiến cậu bé bị ám ảnh khá lâu, thường bật khóc trong cơn mơ.
Dịch Quan San cũng thoát cảnh mê muội, bởi Đinh Trọng Khế có để lại sách vở.
Tử Khuê thì hài lòng với đôi bao tay “Kim Miệt”. Trong bí kíp của phái Thiên Sơn có ghi rằng Kim Miệt là bảo vật đất Ba Tư, dẫu Can Tương, Mạc Da cũng không chặt đứt nổi. Nó được đan bằng mấy ngàn khoen thép nhỏ, tinh xảo phi thường. Và tuyệt diệu hơn nữa là những khoảng trống giữa các khoen không cản trở chân khí đi qua, khi Tử Khuê thi triển chưởng, chỉ Kim Miệt nhắc chàng nhớ đến đôi bao tay “Ngư giáp miệt” đã thất lạc dưới vực thẳm Độc Nha sơn.
Trình Thiên Kim và Tống Thụy đã trở về nhà mình ăn tết nên chỉ còn lại hai hàng họ Dịch, họ Trác. Thanh Chân đã hồi phục thêm vài phần và trở thành đàn bà.
Tử Khuê không nóng ruột tầm thù vì biết trước sau gì Long Vân Tú Sĩ cũng xuất hiện với “Diêm Vương quỷ kỳ” trong tay. Lão bị triều đình truy nã trên cả nước nên chẳng thể công khai tranh bá. Do đó, Quảng Chiêu Phong sẽ trở thành một Quỷ chân nhân thứ hai, nếu lão không chết dưới sông Dĩnh Hà.
Hai việc khiến Tử Khuê áy náy nhất chính là vai trò của Ngân Diện Hầu, sau đó là quan hệ giữa Trác Thanh Chân và Lôi Đình cung chủ.
Trác Ngạn Chi đã giành được ngôi Minh chủ Võ lâm và không có phó. Mộ Duy Lộ đã giết khá nhiều người nên bị Hội đồng Võ lâm truất phế.
* * * * *
Đêm mùng sáu tháng giêng, sau cơn ân ái, Tử Khuê cùng Thanh Chân trò chuyện. Chàng cười hỏi: “Này Chân muội! Bấy lâu nay Nguyệt lão có ghé thăm nàng không?”
Khi đã trở thành đàn bà, người thiếu nữ thường chín chắn, thùy mị hơn trước. Thanh Chân cũng vậy, nàng thẹn thùng đáp: “Bẩm tướng công! Không có!”
Tử Khuê hơi thất vọng vì chàng đang cần gặp Lỗ phán quan để giải quyết cho xong thân phân của Tiêu Mẫn Hiên.
Bạn đang đọc truyện full miễn phí tại Truyện Hay Ho chấm Com
Tiếng khóc oe oe của bé Huyền Huy ở phòng bên cạnh vọng sang, nhắc Tử Khuê nhớ đến Tống Tiểu Tinh. Chàng nghe lòng nhói đau, xót xa cho người vợ bạc mệnh. Mộ phần của nàng vẫn còn nằm ở cánh rừng tùng chân núi Tung Sơn, chờ đủ ba năm mới cải táng về Hứa Xương.
Tử Khuê trằn trọc mãi trong niềm hối tiếc, tận giữa canh tư mới thiếp đi.
Trong mơ, chàng đã hội ngộ với người xưa. Tiểu Tinh nhìn chàng ai oán và dịu dàng thỏ thẻ: “Tuổi thọ của thiếp chỉ bấy nhiêu, tướng công bất tất phải tự trách mình. Nay Huy nhi được Tái Vân yêu thương chẳng khác gì con ruột khiến thiếp yên lòng nhắm mắt. Nhưng xin tướng công vì thiếp mà sớm lên đường đi Tịnh Châu. Tiêu nhị phu nhân Từ Lan đã ngã bệnh vì sầu khổ. Bà ta luôn đối xử với thiếp rất tốt”.
Dứt lời, nàng nghiêng mình vái tạ rồi quay gót. Tử Khuê hốt hoảng định chạy đến níu kéo, song tứ chi rũ liệt không cử động được. Chàng tuyệt vọng réo gọi: “Tinh muội, đừng bỏ ta!”
Tiếng thét mê sảng ấy đã khiến Thanh Chân giật mình, nhỏm dậy lay gọi Tử Khuê. Chàng tỉnh ngủ, buồn rầu kể lại nội dung giấc chiêm bao. Thanh Chân gật gù bảo: “Tướng công phải hoàn thành tâm nguyện ấy của Tiểu Tinh. Và thiếp sẽ cùng chàng đi đến Hầu phủ”.
Sáng ra, trong lúc điểm tâm, Tử Khuê trình bày sự việc đêm qua cùng ý định đi Tịnh Châu.
Quách Thiên Tường là người ân oán phân minh nên tán thành ngay.
“Khuê nhi phải đi thôi. Hơn nữa, ngươi là người chịu trách nhiệm về bệnh tình của Từ nương. Bà ta vì quá thương nhớ, lo lắng cho Tiêu Mẫn Hiên nên khó mà khỏe được”.
Từ ngày mất cánh tay cầm kiếm và thoát chết trong gang tấc, tính tình Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam đã thay đổi, bà trở nên hiền lành, nhu thuận, ít nói và rất siêng năng tụng kinh niệm Phật. Bà để cho Quách lão quyết định mọi việc mà không hề có ý kiến riêng. Giờ đây cũng vậy, Kỹ nương hiền hòa tiếp lời trượng phu: “Nhưng Khuê nhi phải mang theo vài cao thủ thì chúng ta mới yên tâm”.
Trác Thanh Chân hớn hở hưởng ứng: “Bẩm mẫu thân! Tiểu tức và Dịch đại ca sẽ tháp tùng tướng công”.
Kỹ Tòng Thư muốn bỡn cợt đứa cháu dâu ngốc nghếch, giả vờ nghiêm nghị nạt: “Ngươi là dâu sao không lo phụng dưỡng cha mẹ chồng, bám theo Khuê nhi làm gì”.
Thanh Chân tiu nghỉu, ánh mắt lộ rõ vẻ thất vọng, song vẫn cố phân bua, nài nỉ: “Bẩm Đại Cửu phụ! Nếu cứ phải xa tướng công mãi thế này thì đến bao giờ bụng của tiểu tức mới to ra được”.
Nàng vừa nói vừa dùng hai tay mô tả cái bụng bầu, mặt thì nhăn nhó, khổ sở. Cả nhà cười ngất, không sao nín nổi. Cậu bé Tử Chiêm liền châm chọc: “Trác đại tẩu ơi! Bụng phưỡn ra quá sớm thì làm sao mặc áo cưới, bước lên kiệu hoa được”.
Thanh Chân vui vẻ đáp: “Ta chẳng cần những thứ ấy. Phu thê quý ở chỗ tình thâm nghĩa trọng, có hôn lễ hay không cũng chẳng sao”.
Mọi người lắc đầu chịu thua và thầm công nhận ả ngốc kia có lý.
Tử Chiêm chưa kịp chọc ghẹo thêm thì gã gia đinh Tiểu Toàn vào bẩm báo: “Bẩm Trang chủ! Trình lão thái, Tống lão gia và nhị vị thiếu phu nhân đã đến”.
Tiểu Toàn nhanh chân nên cũng đã thoát chết, ẩn náu ở nhà bà con. Sau đó gã tìm đến Mã gia trang để hỏi thăm và tiếp tục phục vụ.
Quách trang chủ nghe nói có hai vị thông gia giá lâm thì vô cùng cao hứng, lật đật bảo cả nhà theo mình ra cửa thùy hoa nghênh đón.
Thiên Tường vừa đi vừa tự nhủ: “Hy vọng cái lão Tống Nhiên kia vẫn còn nhậu được, nếu không thì chán chết. Ta phải giữ lão ở chơi vài tháng mới xong”.
Cuộc sống của người già rất nhạt nhẽo, vô vị. Họ không còn sức lực để bươn chải, phiêu bạt hay làm việc, nên phải nương tựa vào những thú vui cỏn con như nuôi chim, nuôi cá, chăm sóc cây cảnh… Những kẻ giỏi võ nghệ hoặc văn chương, thư, họa thì đỡ khổ hơn, vì sự sáng tạo mang lại ý nghĩa cho những tháng ngày tàn tạ, tiến dần đến hư vô.
Quách Thiên Tường giỏi cả văn lẫn võ nhưng cũng không thích trở thành một lão già lọm khọm, suốt ngày quanh quần bên đám lồng chim, chậu kiểng.
Ông đã từng du ngoạn khắp các thắng cảnh của Trung Hoa, nếm đủ các món ngon, vật lạ trên đời, từng chơi những canh bạc vài vạn lượng vàng, từng ôm những nàng kỹ nữ đẹp nhất Tô Châu, Hàng Châu, Tồn Hoài. Trong thương trường, Thiên Tường cũng là tay cự phách, chỉ sau hai mươi năm đã giàu sang nhất Hứa Xương. Giờ đây, trong lúc tuổi già bóng xế, ông chỉ vui khi chung quanh có nhiều người thân và mong được chết với nụ cười hào sảng, lâng lâng men rượu.
* * * * *
Sẩm tối ngày mười một tháng giêng, Tử Khuê và Dịch Quan San đến trấn Quách Điếm, còn cách Trịnh Châu độ một ngày đường. Họ dừng chân nơi An Hòa lữ quán, một khách sạn nho nhỏ, sạch sẽ.
Lão chưởng quỹ đón khách vô cùng niềm nở, kính cẩn. Ngoài lão ta ra chỉ có duy nhất một gã tiểu nhị gầy ốm như ma đói, lầm lì, lặng lẽ.
Nhưng Dịch Quan San đã vào đây vài lần nên không lấy làm lạ. Gã cũng biết trước rằng An Hòa lữ quán chẳng hề phục vụ cơm nước, lúc chiều đã sớm cùng Tử Khuê ghé phạn điếm lớn ăn thật no. Quan San còn mua sẵn vài món nhậu khô và đổ đầy rượu ngon vào túi da đựng nước.
Tối đến, sau khi tắm gội xong, Dịch Quan San bày những thứ ấy ra cùng Tử Khuê đối ẩm. Từ lâu rồi, gã rất khát khao có dịp cùng say với người tri kỷ.
Lúc ở nhà, vì lo cho sức khỏe của Quách Thiên Tường nên chẳng ai dám ngồi lâu, uống đậm. Khi thấy Quách trang chủ vừa ngà ngà là họ cáo thoái. Dẫu rễ cây “Hắc Ngọc tiên đào” có thần hiệu cách mấy thì bệnh nhân cũng phải uống rượu ít đi mới mong sống thọ. Thiên Tường cũng hiểu điều ấy nên không trách móc con cái, vui vẻ chuyện trò trong cảm giác lâng lâng, dễ chịu.
Hai người chuyển tay nhau túi rượu, chén tạc chén thù vô cùng tương đắc.
Giá như có cả Lã Bất Thành tham dự thì vui biết mấy. Nhưng họ Lã đã phải ở lại Quách gia trang, thay Quan San chỉ huy việc bảo vệ. Ngay Trác Thanh Chân cũng không được tháp tùng Tử Khuê, bởi cục diện giang hồ đã đến hồi khốc liêt.
Đúng như dự đoán của Tử Khuê, Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong đã biến thành Quỷ chân nhân tái thế, tự xưng là Diêm Vương lệnh chủ. Lão mất sạch cơ nghiệp, lại bị truy nã bởi tội toan ám sát Hoài Âm Vương. Thế là Tú sĩ sử dụng “Diêm Vương quỷ kỳ”, cùng thủ hạ đánh cướp khắp miền Nam. Tất nhiên, họ đều bịt kín mặt.
Tử Khuê nhờ Tần vương phi mà biết rõ chân tướng ác ma. Nhưng chàng chưa kịp nghĩ đến an nguy của nhà vợ thì Lạc Mạo chân nhân đã làm việc ấy.
Lão đến Bạch Ngưu trấn và Nghiệp thành đốc thúc hai họ Trình, Tống phải mau kéo cả đến Hứa Xương lánh nạn.
Tử Khuê hổ thẹn vì sự sơ xuất của minh và rất cảm ơn Chân nhân. Quả nhiên là Hầu phủ cùng Hồng Phát đại phạn điếm đều bị tấn công ngay sau khi gia chủ âm thầm trốn chạy.
Lạc Mạo chân nhân không ỷ công lao nọ mà giao thêm gánh nặng võ lâm cho chàng. Ông chỉ nhờ Thiên Kim nhắc lại với chàng rằng: “Tùy ngộ nhi an chính là thuận với đạo của tự nhiên vậy”. Câu nói đơn giản ấy đã khiến cả nhà phải nhức đầu.
Hết túi rượu, Tử Khuê và Quan San khoan khoái lăn ra ngủ vùi.
Mờ sáng, họ thức giấc để lên đường thì phát hiện tay nải hành lý của Tử Khuê đã biến mất. Ngoài y phục, trong ấy còn có Kim bài Hầu tước, lá cờ Võ lâm Đại soái, chiếc mặt nạ bạc, và bộ “Thất Hưu đao”. May mà Tử Khuê đã đặt “Đảo Nguyên thần kiếm” xuống dưới gối nên kẻ gian không lấy được.
Hai người giận dữ nhảy bổ ra tìm lão chưởng quỹ và tên tiểu nhị. Khổ thay, họ đã biệt tăm, lữ điếm chẳng có một bóng người, chuồng ngựa cũng trống không.
Dịch Quan San điên tiết chửi thề ỏm tỏi. Gã rất xấu hổ vì đã đưa Tử Khuê đến đây khiến chàng mất sạch những vật cực kỳ quan trọng.
Tử Khuê đã quen gặp những chuyện xui xẻo, éo le nên dễ chấp nhận hoàn cảnh hơn. Chàng cười méo mó, bảo họ Dịch: “Đại ca chớ nên áy náy, đây chính là vận xui của tiểu đệ chứ chẳng phải lỗi của đại ca. Vả lại, dù không có những vật ấy thì tiểu đệ cũng vẫn là tiểu đệ của Hầu gia. Chúng ta cứ đi Trịnh Châu xem bệnh tình của Từ nương thế nào, còn Kim bài và Ngân diện thì sẽ nhờ Ngụy Công Tử Tề Thúc Như chế tạo sau”.
Mùa xuân ở vùng Hoa Bắc rất lạnh giá, nên đêm qua hai người mặc cả áo lông mà ngủ, tiền bạc cũng nhét trong lưng, nên không mất đồng nào. Họ lầm lũi rời An Hòa lữ quán đi tìm mua ngựa. Khổ thay, ở một trấn nhỏ như Quách Điếm thì khó mà kiếm nổi một con ngựa cho ra hồn, họ đành phải chấp nhận hai lão ngựa già khú đế, cước trình chỉ bằng nửa tuấn mã Ký Nhi.
Ngựa xấu đã khiến cuộc hành trình phải kéo dài thêm, nên mãi tận sáng ngày mười bốn, hai người mới đến được Trịnh Châu. Và tấu xảo thay, khi vừa vào thành, họ đã chạm trán ngay đoàn xa mã của Hầu phủ.
Nhị phu nhân Từ Lan ngồi trên xe độc mã, còn Tiểu Hầu gia gióng ngựa đi song song. Cửa xe không buông rèm, hai mẹ con chuyện trò rất vui vẻ. Bọn Thần Phong kiếm thủ độ mười người đi theo hộ vệ, mặt tươi như hoa.
Tử Khuê và Quan San giật minh, nhìn trân trối dung mạo của Tiêu Mẫn Hiên. Gã không mang ngân diện nên lộ rõ một gương mặt đầy đặn và rất giống Tử Khuê. Tuy nhiên, thần thái của lão có vẻ hiền lành, ngây ngô, dường như không được sáng suốt lắm.
Từ nương cũng xanh xao, hốc hác nhưng ánh mắt rạng rỡ niềm vui. Tử Khuê nhìn bà mà lòng tràn ngập cảm xúc yêu thương. Đồng thời, chàng cũng lo lắng rằng chưa chắc gã Mẫn Hiên kia đã là thực. Nhưng may thay, chàng lại nghe Từ nương cười bảo họ Tiêu: “Hiên nhi! Sau vài tháng xa nhà, ngươi quên hết chuyện đã qua khiến lão thân phải hoài nghi. Nếu ngươi không có dấu vết đặc biệt là nốt ruồi trên huyệt Đại Hách thì ta cũng chẳng dám nhận con”.
Tiêu Mẫn Hiên nhoẻn miệng cười ngờ nghệch: “Thế mà chẳng hiểu sau hài nhi lại nhớ được bớt son trên ngực trái mẫu thân”.
Tử Khuê và Quan San nghe thấy rất rõ, hiểu rằng Lỗ phán quan đã ra tay trả đứa con thực về với mẹ.
Hai phe đi ngược chiều nhau nên xa dần. Tử Khuê bâng khuâng gò cương, ngoảnh lại nhìn theo, lòng nao nao chẳng rõ vui buồn.
Dịch Quan San cười khà khà: “Phải chăng hiền đệ còn tiếc nuối cái vai diễn Hầu gia? Nào, chúng ta hãy ghé vào tửu điếm kia uống vài chén để chúc mừng cho mẫu tử họ!”
Tử Khuê ngượng ngùng gật đầu, song lại cau mày lẩm bẩm: “Lạ thực! Sao hắn lại giống ta đến thế nhỉ!”
Quan San phì cười, lắc đầu: “Không giống lắm đâu. Chính vì thế mà Từ nương mới phải kiểm tra dấu vết trên cơ thể gã”.
Hai anh em vào quán dùng điểm tâm và nhâm nhi bầu rượu “Lan sinh”.
Sau đó, họ đi đến chợ ngựa ở cửa Tây thành để tìm mua hai con tuấn mã chính hiệu. Lần này thì chàng trai xui xẻo họ Quách đã gặp may với chú bạch mã cao lớn, nòi Đại Uyển. Ngựa của Quan San màu đen.
Chọn ngựa là một công việc khó khăn, tỉ mỉ nên khi xong thì đã trưa.
Trước khi khởi hành về Hứa Xương, hai người ghé Hoàng Hà đại phạn điếm ăn một bữa cho chắc dạ.
Tình cờ, chính tại nơi này họ đã gặp Du Vinh, Phó hội chủ Phi Đao hội. Du lão ngồi độc ẩm, nét mặt nặng trĩu ưu tư. Nhưng trên bàn còn có thêm một bộ đũa chén, nghĩa là Du lão đang chờ đợi ai đó. Tử Khuê cùng Quan San bèn đến ngồi ở một bàn trống, cách bàn của Du Vinh không xa.
Quả nhiên, lát sau người ấy xuất hiện và chính là Tuân Khánh, kẻ từng là Ngoại đường chủ Hoạch Đầu hội. Sau khi Lôi Đình thần cung dời đến Trịnh Châu, và Hoạch Đầu hội biến thành Phi Đao Bảo An hội, Tuân lão đã rời Hầu phủ trở về phục vụ Đế Quân.
Hai lão nhân thì thầm bàn bạc. Nhưng những âm thanh nhỏ bé ấy đã lọt vào đôi tai linh mẫn phi thường của Tử Khuê. Tuân Khánh đã nghiêm nghị bảo họ Du: “Sáng nay, Tiểu Hầu gia đã ngu dại nghe theo lời dạy bảo của Cung chủ, bí mật khôi phục sanh ý Hoạch Đầu hội, dù bề ngoài vẫn giữ chiêu bài Bảo An hội. Trước tiên, gã sẽ hạ độc Du lão đệ và bọn Thần Phong kiếm thủ ngay trong bữa cơm chiều nay. Đây là loại độc dược rất lợi hại, khác hẳn thứ đã bị Tiểu Tinh hóa giải”.
Tuân lão ngừng lời, nghẹn ngào nói tiếp: “Thực ra thì Cung chủ đã quyết định hạ sát ngươi. Lão phu vì tình huynh đệ sinh tử chi giao mà tiết lộ việc này. Du lão đệ hãy mau đào tẩu, tìm chốn thâm sơn cùng cốc mà ẩn dật”.
Du Vinh nở nụ cười thê lương: “Cảm tạ lão ca đã quan hoài! Nhưng tiểu đệ không thể vì tham sống mà bỏ rơi anh em được. Họ đã một lòng hướng thiện, vui sướng vì được làm người tốt, chẳng lẽ lại một lần nữa sa vào ác đạo. Tiểu đệ sẽ về thông báo nguy cơ và bảo họ trốn đi”.
Tuân lão chép miệng than: “Du lão đệ tính thế cũng phải. Nhưng lão phu chỉ e rằng những gã ấy không nơi nương tựa, không vốn liếng hoàn lương thì trước sau gì cũng thành đạo tặc”.
Tuân Khánh luận việc rất chí lý. Những con ngựa bất kham kia phải có tay nài giỏi cầm cương thì mới chạy đúng đường được.
Tử Khuê nghe đến đấy thì nảy ra một chủ ý. Chàng kể sơ nội dung câu chuyện bàn bên cho Quan San nghe và cùng gã thương lượng.
Trước đây, Dịch Quan San vẫn xem Hoạch Đẩu hội là kẻ thù không đội trời chung. Nhưng sau khi nghe Tử Khuê nói rõ nguồn cơn, rằng hung thủ năm xưa là người của Lôi Đình thần cung, và đều đã chết già, Quan San chẳng hơi đâu mà oán hận bọn sinh sau đẻ muộn. Gã vốn là người ân oán phân minh. Họ Dịch lại từng sa vào Hắc đạo nên rất thông cảm với hoàn cảnh của đám hảo hán bất hạnh kia. Do đó, Quan Sang hào hứng bày ngay diệu kế. Tử Khuê mừng rỡ, cùng gã anh vợ đa mưu bước sang bàn đối phương.
Hai lão nhân nhìn họ với ánh mắt nghi kỵ và đều giật minh khi nghe gã rậm râu tự giới thiệu: “Tại hạ là Quách Tử Khuê đất Hứa Xương”.
Du Vinh đặc biệt có cảm tình với Quách gia trang, chính nhà họ Quách đã tặng Phi Đao hội vạn lượng vàng và còn giao cho lão tổ chức đại yến ở Tung Sơn, được cả võ lâm biết tiếng.
Với hảo cảm ấy, Du lão chấp thuận ngay kế hoạch của Tử Khuê. Lão sẽ đưa toàn đội Thần Phong kiếm thủ về Hứa Xương tạm ẩn, sau này giương cờ Phi Đao Bảo An hội, tách khỏi Hầu phủ và nhận sự tài trợ của Quách gia trang.
Tuân Khánh cùng đi theo vì ở lại sẽ mang họa. Trác Đế Quân sẽ biết ngay ai là kẻ tiết lộ bí mật để Du Vinh kịp trở cờ. Tuy lớn tuổi hơn họ Du, song Tuân lão vui vẻ giữ vai trò Phó hội chủ.
Và Tuân Khánh bỗng sực nhớ ra một sự kiện quan trọng. Lão nghiêm trang hỏi: “Phải chăng Quách công tử là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn Ninh Tĩnh?”
Tử Khuê mỉm cười gật đầu xác nhận. Tuân lão lập tức thở dài, buồn rầu nói: “Vậy thì công tử cố bình tâm nghe lão phu báo một tin xấu. Mờ sáng hôm nay, Bang chủ Cái bang đã bất ngờ đến Thần cung kể rằng Diêm Vương lệnh chủ đã tập kích Hoài Âm vương phủ vào đêm mười một. Uy lực của ‘Diêm Vương quỷ kỳ’ quả là khủng khiếp, trong khoảnh khắc đã hạ gục mấy trăm tên giáp sĩ thiện chiến. Chu Kiềm nhanh chân nhảy xuống mật thất ẩn náu, nhưng Diêm Vương lệnh chủ đã tìm thấy và sai thủ hạ đập phá cửa hầm. May thay, Trung Thiên Tôn và Lạc Mạo chân nhân đã xuất hiện. Hai người ấy hợp lực giáp công Lệnh chủ mà vẫn không thắng nổi cây cờ ma. Cuối cùng, Lạc Mạo chân nhân liều chết chịu một kiếm thấu phổi để Trung Thiên Tôn đả thương kẻ địch. Diêm Vương lệnh chủ bị đâm thủng sườn, phải đào tẩu. Nhưng thủ hạ của lão đã kịp bắt Tần vương phi mang đi. Trung Thiên Tôn thì ngã quỵ, mê man bất tỉnh, tính mạng khó vãn hồi. Công tử hãy mau khởi hành đi Tín Dương, may ra còn kịp gặp cha nuôi lần cuối”.
Tử Khuê đau lòng khôn xiết, đờ đẫn đứng dậy. Nhưng Dịch Quan San đã kéo chàng ngồi xuống và hỏi lại Tuân lão: “Phải chăng Hội đồng Võ lâm muốn mời Lôi Đình Đế Quân xuôi Nam để đối phó với Diêm Vương lệnh chủ?”
Tuân Khánh gật đầu: “Đúng vậy! Nhưng Trác cung chủ đã tỏ vẻ ngần ngại, miễn cưỡng và bảo rằng chỉ có ‘Chiếu yêu Bát quái đồng kính’ mới thắng được ma lực của Quỷ kỳ”.
Tử Khuê buồn bã ngắt lời họ Tuân: “Không đúng! Đồng Kính chẳng hề có tác dụng ấy và lại đang nằm trong tay Long Vân Tú Sĩ. Trước đây, họ Quảng cũng từng ngộ nhận về pháp lực của ‘Kính chiếu yêu’ nên đã tra khảo gia mẫu để tìm hiểu”.
Dịch Quan San hắng giọng xen vào, điềm đạm nói với hai lão nhân:
“Trong cục diện này, theo thiển ý của tại hạ thì chúng ta phải sửa đổi kế hoạch. Thay vì kéo quân về Hứa Xương tạm lánh, nhị vị hãy giương cờ Phi Đao hội đi ngay Tín Dương mà bái kiến Hoài Âm Vương và ra sức tìm kiếm Tần vương phi. Dẫu việc thành hay bại thì Phi Đao hội cũng được Chu Kiềm tri ân, sủng ái, sau này chẳng phải sợ Lôi Đình cung chủ”.
Chủ ý này cực kỳ tuyệt diệu nên hai lão hớn hở tán thành.
* * * * *
Ngay trưa hôm ấy, Tử Khuê và Quan San phi nước đại xuôi Nam. Du Vinh cùng Tuân Khánh sẽ đi sau một bước vì còn phải về Hầu phủ qui tụ đám Thần Phong kiếm thủ. Tiêu Hầu gia Tiêu Mẫn Hiên còn ở chơi bên Thần cung nên sẽ không biết mà ngăn cản.
Tử Khuê đã ghé Phân đà Cái bang ở Trịnh Châu để nhờ họ đưa thư về nhà. Gã Phân đà chủ chỉ cần nghe danh xưng Quách Tử Khuê là đã vái dài.
Ngoài mối giao tình mật thiết với Thạch bang chủ, Quách gia còn là đại ân nhân khi tặng cho Cái bang ba vạn lượng vàng.
Trong thư, Tử Khuê kể rõ sự việc và yêu cầu bọn thê thiếp gói ghém hành trang đi ngay Tín Dương. Họ phải có mặt trong đám tang nghĩa phụ của trượng phu. Nhất là Tống Thụy, học trò chính thức của Trung Thiên Tôn. Chim câu bay nhanh hơn vó ngựa nên các nàng ấy sẽ mau chân hơn chàng ít nhất là ba ngày đường. Và may ra họ đến nơi trước lúc Trung Thiên Tôn trút hơi thở cuối cùng.
Vó ngựa khua mau tưởng chừng như chẳng hề ngưng nghỉ, nên nửa đêm mười sáu tháng giêng, bọn Tử Khuê đã về đến Hứa Xương. Trong Quách gia trang chỉ còn lại những bậc trưởng bối và vài đứa bé.
Lã Bất Thành đã đưa năm mươi gã kiếm thuẫn đi theo bảo vệ các thiếu phu nhân. Nhưng bù lại, ngàn quân cung nỏ của Tổng binh Hứa Xương, Quách Tử Xuyên luôn túc trực quanh nhà. Trường tiễn cũng là khắc tinh của “Diêm Vương quỷ kỳ”, vì tác hại của cờ ma chỉ dăm ba trượng, trong khi tầm sát thương của mũi tên xa gấp nhiều lần.
Các lão nhân thấy Tử Khuê, Quan San quá mệt mỏi, hốc hác và hôi hám hơn cả ăn mày, đều lắc đầu thương hại. Trình lão thái xót rể quý nên nghiêm nghị giáo huấn: “Sinh tử hữu mệnh. Hà tất hiền tế phải cấp bách quá mức như thế. Hơn nữa, cổ nhân đã có câu: ‘Dục tốc bất đạt’.”
Tử Khuê kính cẩn vâng dạ, hứa với mẹ vợ rằng sẽ từ tốn bôn hành không vội vã nữa. Nhưng đến cuối canh tư thì chàng cùng Quan San đã khởi hành và hai con ngựa mới lại sùi bọt mép.
Dẫu Diêm Vương lệnh chủ đang thọ thương, không thể xuất trận, song hai người vẫn thận trọng, cải trang thành hai hán tử mặt rám nắng. Họ mang lai lịch Tái Bắc song hùng, đôi cao thủ người Thổ, anh tên Cáp Dã, còn em tên Cáp Liệt.
Hai nhân vật này vốn có thực song ở Trung Nguyên chẳng mấy ai biết mặt. Người võ lâm vẫn nghe đồn rằng Tái Bắc song hùng sử dụng kiếm.
Nhưng hai kẻ giả mạo này lại có thêm một vũ khí khác là bao tay thép màu vàng nhạt ở tả thủ. Kim Miệt, bảo vật của Thiên Sơn được đan bằng những khoen kim loại nhỏ, mặt trong và mặt ngoài chẳng khác nhau. Cho nên, Tử Khuê chỉ cần lộn trái chiếc bên hữu vào là nó biến thành bên tả. Chàng tặng một chiếc cho Dịch Quan San và dạy gã vài chiêu trong pho “Thao Quang thần thức”.
Giờ đây, với bàn tay không sợ gươm đao, chưởng lực, bản lãnh của Quan San tăng tiến vượt bậc. Thực ra, từ lâu rồi, Tử Khuê đã luôn tranh thủ chỉ điểm kiếm pháp cho anh vợ, biến họ Dịch thành một kiếm thủ thượng thừa. Ngay bản thân Dịch Quan San cũng không rõ võ nghệ của mình lợi hại đến mức nào.
Xuân về, cây cỏ tốt tươi, hoa dại lác đác khoe sắc cạnh đường quan đạo, và càng về Nam hơi xuân càng nồng ấm, xua đuổi dần cái lạnh rơi rớt từ mùa đông. Nhưng dẫu cho màu xanh bát ngát của cảnh xuân có diễm lệ đến đâu thì cũng chẳng được những kẻ lòng nặng trĩu buồn chú ý đến. Tử Khuê và Quan San chỉ chú tâm đến những chướng ngại trên đường.
Bốn ngày sau, hai người ghé trấn Xác Sơn lúc cuối canh hai để ăn uống, tắm táp qua loa. Đầu canh năm, họ lại lên đường, dầu sức lực của cặp tuấn mã chưa hồi phục đủ mười phần. Họ đã mang theo lương khô, nước uống vì sẽ ít có dịp ghé vào quán trọ.
Trưa hôm ấy, hai mươi tháng giêng, anh em Tử Khuê chỉ còn cách bến đò ngang hơn dặm. Họ bắt buộc phải vượt qua nhánh hướng Tây của sông Nhữ Hà. Đây là một trong những nhánh thượng nguồn sông Nhữ, nước xiết, lòng sâu, mặt rộng hàng dặm.
Nhưng lúc này hai nhân vật của chúng ta chưa thể sang sông. Họ đã phải dừng lại vì một cuộc chiến khốc liệt đang diễn ra trên bãi đất hoang vu mé tả đường quan đạo.
Võ lâm là mành đất của thù hận, cảnh chém giết xảy ra hàng ngày. Cho nên chẳng phải lúc nào người hiệp khách cũng hồ hởi bạt gươm can thiệp giống như gã Hồ Đồ Thần Thương. Nhưng hôm nay, dù đang rất vội mà bọn Tử Khuê vẫn phải dừng chân.
Nga My Nhất Phụng Lạc Y Thường có mặt trong phe yếu thế và sắp lâm nguy. Đồng bọn của nàng chỉ có hai người, đó là một lão nhân mặc bạch bào kiểu hồi tập và một hán tử áo xanh.
Bạch y lão nhân thân hình khôi vĩ, tóc bạc phơ bông xõa ngang lưng, quanh trán quấn dải lụa hồng. Thùy châu của lão lủng lẳng hai chiếc khuyên vàng. Dương như lão nhân thuộc một bộ tộc phương Bắc nào đó chứ chẳng phải người Hán. Điều thú vị là lão sử dụng kiếm thuẫn y như bọn Xoa Lạp cốc vậy.
Nhưng bản lĩnh của lão thì cực kỳ linh diệu, đáng mặt sư tổ của đám hàng binh người Thổ.
Đường gươm ấy vừa nhanh vừa độc và lại rất hùng mạnh. Mỗi đòn tấn công của lão nhân đều khiến đối phương phải dội ngược. Chiếc nón bằng thép trên tay tả lão cũng biến hóa phi thường, chống đỡ toàn bộ những đợt công phá của kẻ địch. Nhờ vậy mà bạch bào lão nhân vẫn trụ vững trong vòng vây mà chưa hề thọ thương. Nhưng lão ta chẳng thể phà vây đào tẩu, vì sau lưng là Hán tử áo xanh đang cần được bảo vệ.
Nàng nữ hiệp núi Nga My đã trúng thương máu loang ướt đẫm tấm võ phục xanh. Tuy nhiên, Nhất Phụng vẫn kiên cường chiến đấu, kiếm bàu loang nhanh như gió thoảng. Nàng và bạch bào lão nhân di chuyển không ngừng, xoay quanh Hán tử áo xanh, cố giữ cho gã được an toàn. Gã ta có đeo kiếm nhưng không rút ra, đứng yên như tượng gỗ, mắt trợn trừng đăm đăm nhìn về một hướng. Gã cũng không búi tóc nên gương mặt gầy gò, xanh xao bị che khuất một nửa.
Song đôi nhãn thần sắc bén của Tử Khuê đã sớm nhận ra gã là Nhạc Cuồng Loan, Thiết cốc chủ Xoa Lạp cốc. Và vì chàng tinh thông y học nên hiểu rằng gã đã bị mù.
Tử Khuê còn phát hiện được lai lịch của đám hung đồ bịt mặt kia. Chúng đông đến gần hai mươi tên, y phục không giống nhau, dùng khăn che mặt cùng một màu nguyệt bạch. Nghĩa là, khi chúng lột khăn ra sẽ trở thành khách giang hồ bình thường, không đặc điểm để nhận biết môn hộ. Văn tự luôn dài dòng để miêu tả những ý niệm xảy ra trong chớp mắt. Tử Khuê và Quan San nhận định cục diện rất nhanh và sớm bạt gươm nhập cuộc, sau khi đeo Kim Miệt vào bàn tay tả.
Hai người rời yên ngựa, xông thẳng vào vòng vây đen kịt chung quanh ba kẻ thế cô. Tất nhiên bọn bịt mặt đã phát hiện ra và chia người ngăn chặn hai kẻ mới đến. Chúng cẩn thận cử ra đến bốn tên để nắm chắc phần thắng, thực hiện đúng câu: “Lưỡng quyền nan địch tứ quyền”.
Nhưng anh em Tử Khuê sánh vai nhau tiến lên, nên chỉ có đất cho hai tên bịt mặt tấn công. Hai gã còn lại chờ cơ hội đánh đòn tiếp theo, đúng sách “xa luân chiến”. Đấu pháp khôn khéo này chứng tỏ bọn chúng đã được huấn luyện rất chu đáo. Hơn nữa, hai gã tiên phong còn xuất cùng một chiêu rất ác độc, sát khí rợn người.
Tiếc thay, Quan San và Tử Khuê đang rất vội, chẳng có thời gian để nương tay. Chỉ sau vài tiếng thép va chạm ting tang, họ đã vươn tả thủ khóa cứng vũ khí của đối phương rồi kết liễu. Quan San hớn hở đâm thủng ngực trái đối thủ, song Tử Khuê thì chỉ chặt đứt cánh tay cầm kiếm của nạn nhân.
Hai tiếng gào thảm khốc vang lên đã làm khiếp vía hai gã kia. Nhưng tử thần đã mau chóng ập đến. Quan San xuất chiêu “Thanh Long Lộng Nguyệt” chín móng rồng vây bủa mục tiêu. Tử Khuê thì đánh chiêu “Lôi Điện Tàn Lâm” gồm toàn những thức chém hùng mạnh như sấm sét.
Công lực của Tử Khuê cao hơn đối thủ và chiếm được tiên cơ nên “Đảo Nguyên thần kiếm” dễ dàng chém gãy thanh gươm của y. Trong lúc lúng túng, gã đã dùng bản kiếm để đỡ đòn, phạm một sai lầm tai hại. Bản lãnh càng cao thâm, Tử Khuê càng có điều kiện giới sát. Lần này chàng cũng chỉ hủy cánh tay tạo ác chứ không giết người. Dịch Quan San thì chẳng biết sợ quả báo, thản nhiên lấy mạng kẻ địch.
Việc bốn thủ hạ bị loại khỏi vòng chiến chóng vánh đã làm phe bịt mặt phải cảnh giác. Và hai gã đầu lĩnh đã đích thân xuất trận. Gã áo trắng có thân hình cao lớn sử dụng trường kiếm. Gã áo nâu thấp hơn song người vạm vỡ, trang bị một thứ vũ khí khá lạ mắt. Đấy có vẻ như là một cây đoản côn gắn thêm một đoạn mũi kiếm ở đầu. Và chính nhờ nó mà Tử Khuê nhận biết chủ nhân là ai.
Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đã bị trục xuất khỏi Thiếu Lâm tự.
Năm ngoái, gã từng theo phe Long Vân bảo mà tấn công Hoàng Phong Hầu phủ, chạm trán Lã Bất Thành. Tử Khuê lại khá quen thuộc với vóc dáng của họ Lã nên nhận ra chẳng khó.
Nhưng lúc này, người mà Lã Hoa Dương đón đánh là Dịch Quan San, còn chàng đấu với tên áo trắng, khăn bịt mặt, bịt đầu cũng trắng. Tử Khuê không biết gã là ai, thận trọng chống đỡ chiêu kiếm quỷ dị. Kiếm pháp của gã ta có lộ số khác với kiếm pháp Trung Nguyên. Kiếm ý thì tàn bạo và nham hiểm. Chàng nhận ra đối phương nhắm cả vào song nhãn lẫn hạ thể của mình, một điều mà người kiếm khách chân chính tối kỵ.
Tử Khuê xuất chiêu “Mạc Mạc Trần Ai”, hóa giải được áp lực nhưng bị đẩy lùi hai bước. Qua va chạm, chàng hiểu rằng công lực kẻ địch chẳng kém mình.
Gã bạch y chiếm được chút thượng phong, sấn tới ra đòn như vũ bão, kiếm kình cuồn cuộn tựa thu phong. Chiêu này còn quái ác hơn chiêu trước, nên Tử Khuê lại phải thoái hậu. Đến lần thứ năm, tai nghe được tiếng rú đau đớn của Lạc Y Thường. Chàng liền đề khí bốc lên cao, tránh đòn của đối thủ và phản kích lại bằng chiêu “Lôi Nộ Bình Sa”. “Lôi Đình kiếm pháp” chủ về lực đạo và có nhiều thức trảm.
Gã bạch y thản nhiên cử kiếm đỡ đỡ đòn, kiếm ảnh mù mịt, ẩn hiện hàng trăm mũi nhọn tựa bàn chông. Gã tin rằng chiêu kiếm kỳ tuyệt này sẽ giành được ưu thế đúng như lời sư phụ gã đã nói.
Nhưng thanh kiếm trị giá bốn vạn lượng hoàng kim của Tử Khuê đã phát huy tác dụng. Gươm thiêng “Đảo Nguyên” đã chặt gãy kiếm và tiện đứt nửa hộp sọ của gã bạch y.
Nạn nhân còn kịp gào lên thảm thiết rồi mới gục ngã. Tử Khuê chẳng có cơ hội để áy náy, chân vừa chạm đất đã lao ngay vào lưới côn của Lã Hoa Dương. Gã chết tiệt ấy đang áp đảo Dịch Quan San bằng những chiêu kiếm tà môn. Họ Lã luyện côn thuật đã nhiều năm, không thể từ bỏ mà chuyển sang sử dụng kiếm được. Do vậy, gã đã giảm trọng lượng của đoản côn và gắn thêm mũi sắc nhọn để có thể thi triển kiếm pháp khi cần thiết. Chính những chiêu kiếm ma quỷ nọ đã làm khó Quan San chứ chẳng phải tài đánh côn của họ Lã.
Nhắc lại, Tử Khuê tấn công vào mé tả Lã Hoa Dương bằng chiêu “Phù Sinh Nhược Mộng”. Gã ta đã biết đồng bọn mình chết thảm nên chột dạ, vội bỏ Quan San, dồn toàn lực chống trả đường gươm của Tử Khuê. Gã múa tít đoản côn, xuất chiêu “Vân Trung Phật Hện”, một chiêu phòng thủ lừng danh của Thiếu Lâm tự. Gã không còn tin vào thứ kiếm pháp mình mới học nữa. Nếu nó hữu hiệu thì gã bạch y đã không chết non như thế.
Họ Lã đã tỏ ra rất thông minh. Giờ đây, quanh người gã hiện ra hàng trăm côn ảnh, che chắn vững chắc như tường đồng vách sắt. Tiếng thép chạm nhau liên hồi và dường như thanh kiếm của Tử Khuê không tài nào xâm nhập vào được. Nhưng chàng đã bất ngờ vươn tả thủ, bàn tay chỉ chập chờn vài thế thức là đã tóm được mũi đoản côn.
Tử Khuê giật mạnh kéo đối thủ về phía trước rồi sấn đến vươn kiếm đâm thủng huyệt Khí Hải. Chàng không chặt tay vì với công lực cao cường và tài trí hơn người, họ Lã thừa sức học cách dùng tay trái và tiếp tục hành ác. Chàng hùy võ công Hoa Dương chính là bắt gã trả lại công lao dạy dỗ của Thiếu Lâm tự.
Đan điền thủng sâu, chân nguyên thoát ra như nước lũ, Hoa Dương đau đớn và tuyệt vọng, ôm bụng gục ngã. Quan San hiểu ý Tử Khuê nên không giết Hoa Dương, cùng chàng xông lên phá vây, giải cứu bọn Lạc Y Thường. Đầu lĩnh thương vong thì thủ hạ mất vía, vừa chống đỡ vừa rút lui vào cánh rừng cuối bãi đất. Một tên đã lén mang được Lã Hoa Dương đào tẩu.
Tử Khuê cố tình bắt sống một gã để thu thập tin tức. Song gã đã cắn vỡ thuốc độc mà tự sát.
Cuộc chiến tàn, đấu trường chỉ còn lại năm người sống và mười hai xác chết. Bạch y lão nhân xem xét thương thế của Nga My Nhất Phụng. Thấy đấy chỉ là những vết thương ở phần mềm, không phạm phủ tạng hay gân cốt, lão yên lòng bước về phía hai vị ân nhân.
Lúc này Tử Khuê mới có dịp nhìn rõ dung mạo của lão nhân. Trên gương mặt đen đúa ấy có đôi mắt sâu sắc bén và chiếc mũi ưng. Thần thái lão oai nghiêm đáng mặt anh hùng một cõi. Lão ta nở nụ cười rạng rỡ, khoe đôi hàm răng vàng ố nhưng chắc khỏe. Lão nói tiếng Hán bằng một giọng lơ lớ và mộc mạc: “Con bà nó! Không có hai ngươi giúp đỡ thì ba người bọn ta ra ma cả rồi. Lão phu xin cảm tạ rất nhiều. À! Thế hai ngươi tên gì, học nghệ của ai mà giết người giỏi thế?”
Tử Khuê thầm tức cười, vui vẻ đáp: “Bẩm lão trượng! Anh em vãn bối là Cáp Dã và Cáp Liệp, quê quán vùng quan ải phía Bắc”.
Khi chàng khai báo danh tính xong thì lão nhân sực nhớ ra rằng đáng lẽ mình phải xưng tên trước, bởi lão là kẻ thọ ân. Lão nhân ngượng nghịu nói:
“Lão phu là Mã Hồ Mật, quê đất Sơn Tây. Còn thằng bé áo xanh kia là cháu ruột, gọi lão phu là Đại Cửu phụ. Y tên Nhạc Cuồng Loan, vì luyện độc công mà hỏng mắt, nên lão phu đưa y xuống Miên Cương tìm thầy thuốc”.
Nghe nói đến độc dược, Tử Khuê nóng nảy ngắt lời lão họ Mã: “Bẩm lão trượng! Thế lệnh điệt đã bị hại bởi loại độc nào?”
Mã Hồ Mật cau mặt thở dài: “Loan nhi vì nóng ruột báo thù cho cha nên đã liều lĩnh luyện công phu ‘Thần Hương Đoạt Phách’. Y thu nạp chất độc của loài hoa Độc Lan để phổ vào chưởng kình và đã bị chính chất độc ấy làm cho bế tắc kinh mạch, dẫn đến mù mắt”.
Tử Khuê thuộc lòng cả Độc Kinh lẫn Huyền Hư Y Lão, nên biết rằng mình có thể cứu được Cuồng Loan. Chàng phấn khởi bảo: “Vãn bối có thể hóa giải được độc tố của loài Độc Lan. Lão trượng cứ yên tâm”.
Mã Hồ Mật vui mừng khôn xiết, quay lại gọi: “Loan nhi, mau lại đây!”
Nga My Nhất Phụng đã tự băng bó xong, nghe vậy liền dắt Cuồng Loan đi đến. Nàng kính cẩn nghiêng mình thi lễ với Tử Khuê: “Tiểu muội họ Lạc, tên Y Thường, đệ tử phái Nga My, xin khắc cốt ghi tâm ơn cứu mạng của đại hiệp”.
Nhạc Cuồng Loan giờ đây hình dung tiều tụy, thân gầy gò, mặt tái xanh.
Và trong đôi mắt u ám của gã ẩn chứa nỗi thống khổ ngút ngàn. Là kẻ cực kỳ cao ngạo, gã dễ tuyệt vọng khi rơi vào cảnh tàn phế. Gã dửng dưng với Tử Khuê nên không xem trọng việc mạng sống mình được ai đó bảo toàn. Cuồng Loan lạnh lùng ôm quyền nói: “Tuy không còn thiết sống nhưng Nhạc mỗ cũng xin cảm tạ túc hạ”.
Mã Hồ Mật nghe chướng tai, vội bảo gã: “Loan nhi chớ thất lễ! Gã họ Cáp này tự nhận rằng có thể loại trừ được hương Độc Lan và giúp ngươi sáng mắt trở lại”.
Đấy chính là khát vọng lớn lao nhất nên Cuồng Loan rúng động tâm can, vai run nhẹ. Song gã vẫn còn nghi ngại vì lẽ đâu lại may mắn đến thế.
Cuồng Loan chưa biết phải nói sao thì Dịch Quan San chạy tới. Nãy giờ gã đi kiểm tra các tử thi để tím chút manh mối. Họ Dịch nghiêm nghị bảo Tử Khuê:
“Nhị đệ! Cái gã bị ngươi chặt vỡ đầu chính là Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ. Chúng ta phải mau rút khỏi chốn này, để phòng phe địch kéo đại quân đến phục hận hay cướp xác”.
Tử Khuê nhăn mặt, nghe lòng se lại. Chàng không ân hận nhưng thầm tiếc cho một kẻ có tài.
Cuồng Loan cũng biết việc Mộ Duy Lộ đâm thủng song nhãn Hồ Hướng.
Họ Hồ nhà ở Trịnh Châu, thuộc tỉnh Sơn Tây. Lúc ấy, Cuồng Loan chưa luyện độc công, có đến thăm Hồ Hướng. Nạn nhân đã kể về chiêu kiếm quái dị cũng như công lực thâm hậu đến khó ngờ của Mộ Duy Lộ. Nay Cáp Liệp có thể giết gã phản đồ núi Võ Đương kia một cách dễ dàng thì quả là đáng phục. Từ chỗ kính phục, Cuồng Loan bắt đầu tin tưởng tài ba của họ Cáp.
Ngựa của bọn họ vẫn quanh quẩn gần đấy, nghe tiếng huýt sáo là chạy đến ngay. Sau khi ném các xác chết vào rừng, năm người lập tức thượng mã, lên xe phi nhanh về phía bến đò sông Nhữ. Sang đến bờ Nam, họ tiếp tục bôn ba và dừng chân ở trấn Minh Kỳ, cách Nhữ Hà sáu chục dặm.
Minh Kỳ là một nơi thị tứ khá sầm uất nên dược đưởng đầy đủ dược vị, Ngay tối hôm ấy, Tử Khuê tiến hành việc chữa trị cho Cuồng Loan. Đầu canh ba, thuốc đã sắc xong, chàng cho gã uống và dùng chân khí đưa dược lực đả thông những chỗ bế tắc trong kinh mạch, đẩy chất độc ra ngoài qua lỗ chân lông. Những giọt mồ hôi tanh tưởi túa ra như tắm và cả tuyến lệ bệnh nhân cũng hoạt động mạnh mẽ.
Nửa canh giờ sau, Cuồng Loan nghe cơ thể thư thái, sung mãn, mắt thì đã thấy được lờ mờ. Gã mừng như chết đi sống lại, nghẹn ngào dập đầu lạy tạ ân nhân. Nhưng lúc này Tử Khuê đã nhắm mắt tọa công, khôi phục lại số chân nguyên bị tổn thất. Y phục chàng cũng ướt sũng mồ hôi.
Thấy vậy, Cuồng Loan đi vào trong tằm gội, thay áo. Gã sung sướng đến mức không thể tắm kỹ được, mau chóng trở ra.
Mã Hồ Mật cũng phấn khởi phi thường, gọi tiểu nhị bày ngay mâm rượu thịt để ăn mừng. Năm người quây quần quanh bàn bát tiên, chuyện trò rất vui vẻ.
Khi được hỏi, Lạc Y Thường thực thà kể rằng mình đi Sơn Tây thăm bà con, lúc về thì gặp cậu cháu Cuồng Loan. Thấy gã mù lòa, bệnh tật, nàng tình nguyện tháp tùng đi Miêu Cương tìm lương y. Nàng đã không mang vạn lượng vàng về Nga My mà gửi cho Thanh Khê Tử của phái Thanh Thành.
Cuồng Loan vốn là người thông tuệ, thầm nghi ngờ rằng hai ân nhân của mình giấu giếm lai lịch. Nếu Tái Bắc song hùng có bản lãnh cao cường đến thế thì đã vào Trung Thổ dương danh chứ không chịu mai một ở vùng quan tái Hà Bắc.